Từ xa xưa, dân tộc ta luôn bị phong
kiến phương Bắc đô hộ, xâm lược. Chúng ta bị cướp, bị buộc cống phẩm nhiều sản
vật quý cho các Triều đại Phương Bắc. Trong đó, các cống phẩm chủ yếu là các
vật phẩm vàng, bạc từ nghe kim hoan.
Theo tiến trình lịch sử nghề kim hoàn Việt Nam đã nói lên được ý thức dân tộc,
chủ quyền của nước ta trong từng thời kỳ lịch sử. Dân ta từ việc phải cống nộp
tài nguyên đến không khuất phục. Và đỉnh cao là học nghe
kim hoan của chính người Hoa truyền bá sâu rộng cho nhân dân cả nước để
sản xuất và tự chủ.
Phần 1: TỪ CỐNG NẠP LỄ VẬT ĐẾN KHÔNG
KHUẤT PHỤC
Từ khi người Việt xuất hiện làm nên
các nền văn minh Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo… thì nghềkim hoàn cũng ra đời và phát triển rực rỡ. Ở các triều đại phong kiến, nghề kim hoàn cũng được xem trọng phát triển để tạo
các đồ trang sức thẩm mỹ, vừa làm các dụng
cụ làm đặc trưng dân tộc, bảo vệ lãnh thổ: Như văn minh Đông Sơn đúc Trống Đồng
để sinh hoạt lễ hội và hiệu triệu nhân dân đánh giặc… Thời Lý Thái Tổ, vua đã
hai lần phát chiếu chi hơn 400 lạng vàng đúc chuông chùa Hưng Thiên, rồi chùa
Thăng Nghiêm và Tinh lâu Ngũ Thượng..
Tuy nhiên, từ khi dựng nước đến dành
độc lập chủ quyền qua các triều đại thì nước Việt Nam luôn nhỏ bé hơn nước
Phương Bắc. Vì vậy, hàng năm hay vài năm chúng ta vẫn phải cử người đi xứ sang
cống sản vật, vàng ngọc cho các Triều đình Phương
Bắc.
Vào thời Lê Lợi - Nguyễn Trãi kháng
chiến chống quân Minh xâm lược. Nghĩa quân đã đánh bao vây quân chiếm đóng, thắng
đoàn quân cứu viện và chặt đầu tướng giặc Liễu Thăng ở trận Chi Lăng – Xương
Giang. Quân Minh cứu viện rồi quân xâm lược đại bại, phải rút về nước.
Vua Lê Thái Tổ cho đúc “2
tượng người, 1 bằng vàng và một bằng bạc nặng 200 lạng (một thay cho vua, một đền mạng
Liễu Thăng ). Lư hương bạc một cỗ, bình cắm
hoa bạc 1 đối nặng 300 cân, cùng các sản vật địa phương.” Bởi Liễu Thăng là
con vua nhà Minh. Lê Thái Tổ hành động như vậy để giữ lòng giao hảo.
Tuy nhiên
một thời gian sau, nước Việt không có ý định phải cống nạp tượng
vàng đền mạng cho kẻ xâm lược nên đã trì hoãn. Một thời gian sau,
nhà Minh vẫn cho người đòi mạng Liễu Thăng. Lúc này, tập đoàn phong kiến Lê –
Trịnh rất mạnh nên không phục tùng nữa. Việc cống phẩm cùng tiến hành nhưng cho
có lệ và không khuất phục.
Trong
nghiêm cứu về Nghề Kim Hoàn của tác giả Vũ Kim Lộc – Phạm Quốc Quân có
đoạn ghi: “Về cống phẩm, vào thời kỳ này, nhà Minh lại yêu sách cống người bằng
vàng. Năm 1595, vua Lê Thế Tông (1573 – 1599) sai Trịnh Vĩnh Lộc mang lên Lạng
Sơn 2 người bằng vàng và bằng bạc cao một thước 2 tấc, nặng 10 cân nhưng không
cúi mặt.”
Việc cống
nạp vàng bạc ít hơn, không cúi mặt và chỉ trao ở
biên giới cho thấy ý thức dân tộc tự chủ của người Việt.
Chỉ khi
nhà Mạc cướp ngôi, muốn lấy lòng nhà Minh làm chỗ dựa, họ phải cho người đêm cống
phẩm nhiều hơn, đúc tượng người nặng cân hơn và cuối mặt.
Khi tập đoàn Lê - Trịnh đuổi được quân nhà Mạc lên Cao Bằng
và một thời gian sau dẹp nốt thống nhất đất nước phương Bắc, việc cống nạp tượng
vàng đền mạng Liễu Thăng cũng không được các Vua Lê, Chúa Trịnh chú ý thực
hiện. Nhà Minh mấy lần cho người sang đòi nộp cống. Trạng Quỳnh đã lập kế khiến
sứ thần phương Bắc đuối lý, không còn cớ đòi đền mạng Liễu Thăng nữa.
(Mời các bạn đón đọc ở bài viết tiếp theo.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét