Phần 2: XÁC ĐỊNH RIÊNG GIÁ TRỊ KIM HOÀN CHO NGƯỜI VIỆT VÀ XUẤT KHẨU RA KHU VỰC
Vào
thời Chúa Nguyễn nghề Kim hoàn được ý thức phát triển, đạt được nhiều thành tựu
to lớn. Nó tạo nền móng cho nhiều mô hình quản lý xã hội Việt Nam hiện nay. Sản
phẩm kim hoàn của Việt Nam không chỉ dùng trong nước mà còn xuất khẩu.
Tiếp theo
phần 1, song hành với tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở phía Bắc dành ý thức dân
tộc tự chủ, không lệ thuộc thì tập đoàn chúa Nguyễn ở phía Nam có sự bình yên
và phát triển mạnh mẽ.
Các chúa
Nguyễn đã cai trị rộng mở và đẩy mạnh phát triển mọi mặt trong đó nghề kim hoàn
được chú trọng hàng đầu. Vào thời các Chúa Nguyễn Miền Nam, kinh tế phát triển
vững mạnh không ngừng. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn thì trước đây, chưa có
triều đại nào lại chý ý quan tâm đến nghề kim hoàn như bây giờ.
Đối với nhân dân:
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân tham gia nghề kim
hoàn. Thậm chí, nhà chúa còn còn cấp phát tiền công, miễn trừ sưu thuế cho người
đi tìm vàng.
Đối với ngành nghề:
Triều đình cử các tướng lĩnh trông coi nghề kim hoàn. Ở các mỏ vàng như
Quảng Nam, Thuận Hóa, chính quyền lập các cơ sở lọc, nấu vàng có tên là liêm hộ
thuộc.
Ở cấp Trung Ương:
Triều đình lập các “Ty”của nghề kim hoàn (tương đương với
các Bộ bay giờ mà đến thời những năm 45 – 75 nước ta vẫn còn dùng từ này, sau
đó mới đổi sang Bộ).
Ngân Tượng ty (Ty thợ bạc): trông coi nghề nấu
vàng.
Nội lệnh sử Ty: chuyên đi thâu nhận vàng khai thác
được trong nhân dân ở các xứ.
Ở kinh thành Thuận Hóa (Huế) còn có xưởng kim hoàn của Triều đình gọi là Nội
Kim Tượng Cuộc tức Cục thợ làm vàng (“Cục” tương đương với các cục
đường sắt, cục trại giam … nhà nước như hiện nay đang dùng). Nội Kim
Tượng Cuộc quy định rõ cân lượng chuẩn xác cho nghề kim hoàn thời đó
như: cứ 10 lượng vàng 9 tuổi thì nấu thành 01 thoi. Vì vậy có
thể xem Nội Kim Tượng Cuộc có vai trò như Ngân hàng Trung Ương
bây giờ.
Năm 1634,
chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho xuất sang Nhật 50 cái bát, 50 cái đĩa có phân
nửa bằng vàng, phân nửa bằng bạc. Điều đó cho thấy nghề kim hoàn của chúa
Nguyễn Phía Nam phát triển mạnh. Nhà chúa không bị cướp bóc, ép đền mạng bằng
tượng vàng như tập đoàn Lê Trịnh mà sản xuất ra nhiều, đạt khả năng chất lượng
và thẫm mỹ để xuất khẩu.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, nghề kim hoàn thời này đã đặt nên móng
cho một số quy chuẩn thước đó, xây dựng nhiều làng nghề, bộ ngành quản lý riêng
của người Việt truyền lại cho thế hệ sau. Nó thể hiện cách nhìn của người Việt,
từng bước thực hiện tiêu chuẩn, tên gọi riêng chứ không ảnh hưởng vào nghề kim
hoàn của Trung Quốc nữa.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét